MUA | BÁN | |
AUD | 15386.41 | 16131.86 |
CAD | 17223.74 | 18058.21 |
CHF | 23161.62 | 24283.77 |
DKK | 0 | 3531.88 |
EUR | 24960.98 | 26533.06 |
GBP | 29534.14 | 30656.9 |
HKD | 2906.04 | 3028.6 |
INR | 0 | 340.14 |
JPY | 202.02 | 214.74 |
KRW | 18.01 | 21.12 |
KWD | 0 | 79758.97 |
MYR | 0 | 5808.39 |
NOK | 0 | 2658.47 |
RUB | 0 | 418.79 |
SAR | 0 | 6457 |
SEK | 0 | 2503.05 |
SGD | 16755.29 | 17427.08 |
THB | 666.2 | 786.99 |
USD | 23075 | 23245 |
THUỐC BÔI NGOÀI TRỊ NÁM, TÀN NHANG VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Hiện nay, các sản phẩm bôi ngoài (thuốc, mỹ phẩm) được được sử dụng trong điều trị nám, tàn nhang trên thị trường vô cùng đa dạng. Chính vì vậy, người tiêu dùng thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc lựa chọn những sản phẩm phù hợp.
Các loại thuốc bôi trị nám thông thường
1. Hydroquinone ( HQ)
Thường được biết đến với tên dihydroxybenzen, có cấu trúc tương tự với tiền chất của melanin. Nó ức chế quá trình chuyển từ DOPA thành melanin bằng cách ức chế enzyme tyrosinase. HQ không chỉ tác động đến sự hình thành, quá trình melanin hóa, làm mất các hạt melanin mà còn tác động lên cấu trúc màng tế bào melanin, thậm chí tiêu diệt các tế bào này. HQ có tính oxy hóa, do vậy khi chứa trong lọ hoặc tuýp nó có thể chuyển màu từ trắng sang nâu. Sản phẩm bị biến đổi màu sắc sẽ không còn tác dụng và bị loại bỏ. HQ được sử dụng rộng rãi với vai trò làm mất sắc tố gây đậm màu trên da và là lựa chọn vàng trong điều trị bệnh nám, tàn nhang, đặc biệt đối với trường hợp bị nám ở lớp biểu bì. Trong điều trị nám, HQ thường được sử dụng hàng ngày với nồng độ 2 – 5%. Hiệu quả của HQ thể hiện rõ rệt sau 5 – 7 tuần sử dụng. Liệu trình điều trị kéo dài tối thiểu 3 tháng đến 1 năm. Ngoài ra, HQ còn được bào chế dưới dạng kết hợp với một số chất khác như: chất chống nắng, steroid, retinoid, acid glycolic để tăng tác dụng.
Tác dụng không mong muốn của HQ
Thường phụ thuộc vào liều lượng sử dụng và thời gian điều trị. Thường gặp nhất là gây kích ứng, ngoài ra, có thể gặp các trường hợp như: ban đỏ, ngứa, dị ứng da, bạc móng, hồng cầu nhược sắc thoáng qua… Những tác dụng này thường xảy ra khi sử dụng HQ có nồng độ lớn hơn 2%. Monobenzy của HQ không được sử dụng trong điều trị nám, tàn nhang do tác dụng làm mất vĩnh viễn các tế bào sinh melanin, gây ra bệnh bạch tạng.
Các cơ quan quản lý ở Nhật, Châu Âu và gần đây là Mỹ luôn đặt ra dấu hỏi về độ an toàn của HQ, thậm chí bị cấm đưa vào sản xuất mỹ phẩm ở nhiều nước.
2. Acid Azelaic
Acid azelaic có tác dụng ức chế cạnh tranh với tyrosinase. Ban đầu, hoạt chất này được sử dụng trong điều trị mụn nhưng do tác động trên tyrosinase nên sau đó được đưa vào sử dụng trong điều trị các bệnh về rối loạn sắc tố da như nám, tàn nhang.
Cơ chế tác dụng
Ức chế tổng hợp DNA và các enzyme ở ty thể, dẫn tới làm giảm tác dụng gây độc các tế bào sinh melanin. Acid azelaic không làm mất sắc tố ở những ở những vùng da bình thường, do vậy, nó có tác dụng chọn lọc lên những tế bào sinh melanin bất thường. Acid này còn được sử dụng để can thiệp những vết thâm hình thành do mụn. Người ta cho rằng gốc tự do cũng là một trong những nguyên nhân gây tăng sắc tố trên da và acid azelaic làm hạn chế sản sinh gốc tự do.
Nghiên cứu chỉ ra rằng acid azelaic với nồng độ 20% tương đương với hydroquinone nồng độ 4% trong điều trị nám, tàn nhang và không gây ra tác dụng không mong muốn. Ngoài ra, sự kết hợp giữa acid azelaic và tretionin 0.05% hoặc acid glycolic 15 – 20% sẽ làm tăng tác dụng làm trắng và dễ sản xuất hơn. Tác dụng không mong muốn của acid azelaic bao gồm: ngứa, ban đỏ, rát.
3. Acid Kojic ( KA)
Acid Kojic ( 5 – hydroxyl – 2 – hydroxymethyl – 4 – pyrone) là một chất tự nhiên nguồn gốc từ một số loài nấm như Acetobacter, Aspergillus, Penicillium. Tác dụng bằng cách ức chế sự sản sinh tyrosinase tự do và cũng là chất chống oxy hóa. Acid Kojic có mặt trong hầu hết các liệu pháp điều trị, tuy nhiên, nó thường gây kích ứng mạnh. Nồng độ sử dụng KA dao động trong khoảng từ 1 – 4 %. Một nghiên cứu cho kết quả: nếu kết hợp KA 2% và HQ 2 % cho hiệu quả cao hơn so với kết hợp acid glycolic ( GA) 10% và HQ 2 %. Một thí nghiệm khác tiến hành so sánh GA 5% kết hợp với HQ 4% hoặc KA 4% trong 3 tháng cho thấy: cả hai trường hợp đều cho hiệu quả tương đương với tác dụng làm giảm sắc tố trên da ở 52% bệnh nhân. KA có thể sẽ là một lựa chọn thay thế rất hiệu quả trong trường hợp bệnh nhân gặp khó khăn trong việc áp dụng các liệu pháp đầu tay khác.
Tác dụng không mong muốn
Có thể gặp phải khi sử dụng KA: viêm da hoặc ban đỏ.
4. Retinoid
Tretinoin – một retinoid – đầu tiên được sử dụng kết hợp với HQ để làm tăng khả năng thấm qua da nhưng một thời gian sau người ta phát hiện chất này cũng có khả năng tác động lên việc hình thành hắc sắc tố. Retinoid tác động lên nhiều khâu của quá trình tạo melanin. Tretinoin làm đẩy nhanh quá trình loại bỏ sắc tố thông qua quá trình tái tạo biểu bì và đẩy nhanh quá trình này để làm giảm thời gian liên hệ giữa tế bào sừng và tế bào sinh melanin. RA còn giúp ngăn chặn sự tạo thành hắc sắc tố trên da gây ra bởi UVB do làm giảm hoạt động của men tyrosinase. Acid này tác động lên tyrosinase ở giai đoạn sau sao chép và các protein liên quan đến tyrosinase. So với các phenolic như HQ thì thời gian tác dụng của RA lâu hơn và các bằng chứng lâm sàng cho thấy da sáng lên trông thấy sau khoảng 24 tuần.
Tretionin cho tác dụng tốt khi dùng đơn độc nhưng hiệu quả cũng tăng lên khi kết hợp với các thành phần khác như HQ và corticoid.
Tác dụng không mong muốn
Hay gặp phải khi sử dụng RA là: ban đỏ, ngứa, rát, khô, đóng vảy trên da. Viêm có thể dẫn tới thâm da, đặc biệt hay xảy ra với làn da tối màu.
Khi điều trị bằng RA tốt nhất nên dùng thêm kem chống nắng. Adapalene, một acid naphthoic sinh ra từ hoạt động của retinoid, có tác dụng tương tự như RA nhưng lại có nhiều tác dụng không mong muốn hơn tretionin – kết quả từ thử nghiệm trên một số bệnh nhân Ấn Độ.
5. Steroid
Người ta thấy rằng, sử dụng các steroid mạnh trong thời gian dài có thể gây ra hiện tượng suy giảm sắc tố ở những vùng da thường. Tuy nhiên, cơ chế tác động làm trắng da của các corticosteroid vẫn chưa được làm sáng tỏ. Các tế bào sinh melanin đáp ứng với rất nhiều loại chất trung gian hóa học và tác dụng ức chế của corticosteroid lên sự hình thành các chất trung gian hóa học như prostaglandin và leukotrien giải thích phần nào cơ chế làm trắng da của steroid. Những steroid có tác dụng mạnh, có thể sử dụng đơn độc và cho đáp ứng điều trị tốt, tuy nhiên, phương pháp này không được khuyên dùng vì thường gây nhiều tác dụng không mong muốn.
Thông thường, các steroid được bào chế dưới dạng kết hợp với các hoạt chất khác, như tretionin, cho tác dụng tổng hợp và làm giảm bớt tính gây kích ứng của sản phẩm. Steroid thường kết hợp với HQ và RA cho ra những mỹ phẩm có tác dụng tốt trong các thử nghiệm lâm sàng.
Tác dụng không mong muốn
kích ứng, hiện tượng giống như mụn đỏ trên da, teo da, giãn mao mạch, rậm lông.
6. Acid glycolic
Acid glycolic là một acid alpha-hydroxy, thường kết hợp với các chất khác ở nồng độ 5 – 10% trong các sản phẩm làm trắng da. Nó có tác dụng tái cấu trúc biểu bì và đẩy mạnh quá trình tróc da, đặc biệt với những thương tổn sắc tố, acid glycolic giúp phân tán sắc tố rất nhanh. Bên cạnh đó, acid này còn có tác dụng giảm sản sinh melanin bằng cách ức chế enzyme tyrosinase.
Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh: với công thức chứa 10% acid glycolic và 4% HQ cho tác dụng rất tốt trong điều trị bệnh nám, tàn nhang ở nhóm bệnh nhân người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Tác dụng không mong muốn
Kích ứng là tác dụng không mong muốn hay gặp phải khi sử dụng acid glycolic, thường được xử lý bằng cách tạm ngừng sử dụng và bôi kem giữ ẩm.
7. Mequinol
Là một ether có nguồn gốc từ HQ. Cơ chế hoạt động vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên, là một cơ chất của tyrosinase nên nó đóng vai trò là một chất ức chế cạnh tranh, hạn chế hình thành các tiền chất của melanin. Ở Mỹ, hoạt chất này được sử dụng với nồng độ 2%, kết hợp với tretinoin 0,01% để làm tăng tính thấm qua da.
Một thử nghiệm được tiến hành trên 216 đối tượng sử dụng dung dịch chứa mequinol 2% và tretinoin 0,01% cho hiệu quả khá cao và các trường hợp bị nốt ruồi do phơi nắng và các tổn thương do gia tăng sắc tố đều đáp ứng điều trị tốt và hiệu quả khi điều trị với HQ 3% ở cẳng tay tương tự như ở trên mặt. Ở nam giới, có 4 trong 5 bệnh nhân sạch hoàn toàn nám, tàn nhang sau 12 tuần sử dụng và 1 bệnh nhân có cải thiện ở mức trung bình.
Tác dụng không mong muốn
Thường ở mức nhỏ nhất, chỉ gây ngứa ở 1 bệnh nhân. Tất cả bệnh nhân đều duy trì được hiệu quả trên ở 16 tuần tiếp theo.
Người ta cùng tiến hành một nghiên cứu để đánh giá tác dụng phụ của mequinol – tretinoin với liều 2 lần/ngày trong vòng 24 tuần kèm với biện pháp chống nắng trong điều trị nốt ruồi do nắng và tổn thương do tăng sắc tố. Tác dụng không mong muốn gặp phải bao gồm: ban đỏ, rát, ngứa, tróc vảy, kích ứng da, quầng thâm, sạm da. Tác giả nghiên cứu cho rằng, khi sử dụng kem chống nắng có chỉ số SPF 25 hoặc cao hơn, sự kết hợp 2 chất này được coi là an toàn và không gây ra tác dụng phụ có hại nào. Tuy nhiên, cần tiến hành thêm các thử nghiệm lâm sàng với số lượng lớn hơn bệnh nhân tham gia để làm rõ vai trò của thành phần mới có triển vọng này trong việc kiểm soát nám, tàn nhang.
8. Arbutin
Đây cũng là chất có nguồn gốc từ HQ, một chất tự nhiên được sử dụng thành công trong điều trị bệnh rối loạn tăng sắc tố. Liên kết glycoside bị thủy phân ở điều kiện in vivo dẫn tới giải phóng ra hydroquinone. Arbutin ức chế tyrosinase, do vậy, làm giảm sinh melanin. Các vi khuẩn chí trên da có khả năng thủy phân Arbutin, những hydroquinone sinh ra từ quá trình thủy phân có tác dụng dọn các gốc tự do và ức chế tyrosinase tốt hơn Arbutin.
Tác dụng của Arbutin không phụ thuộc vào liều và ít độc tính hơn hydroquinone. Deoxyarbutin là một chất hình thành từ Arbutin bằng cách loại bỏ nhóm hydroxyl khỏi phân tử. Chất này cũng có tác dụng làm trắng da do ức chế tyrosinase. Mặc dù còn thiếu các thử nghiệm lâm sàng nhưng những nghiên cứu trên in vitro và in vivo cho thấy chất này khá an toàn và hiệu quả trong điều trị rối loạn tăng sắc tố trên da.
9. Điều trị phối hợp
Quá trình hình thành sắc tố diễn ra rất phức tạp và trải qua nhiều giai đoạn trong đó những phân tử tiền chất hoạt động nhờ vào enzyme tyrosinase để sản sinh ra chất cao phân tử sinh học có tên là melanin ở cơ quan đặc biệt của tế bào gọi là hạt melanin. Các hạt melanin sau khi đã chuyển sang màu đen được vận chuyển từ tế bào sinh melanin sang các tế bào sừng, cuối cùng tạo ra màu sắc da biểu hiện bên ngoài. Có rất nhiều chất tác động vào các giai đoạn khác nhau của quá trình này, vì vậy, nếu kết hợp các hoạt chất này một cách hợp lý sẽ cho hiệu quả điều trị cao hơn. Thêm vào đó, các chất có thể kết hợp và hỗ trợ nhau về tác dụng, chẳng hạn, một thuốc có thể làm mất tác dụng không mong muốn của thuốc khác được bào chế với cùng loại tá dược. Ví dụ, các steroid có thể làm giảm bớt hiện tượng kích ứng gây ra bởi HQ hoặc retinoid. Mặt khác, retinoid lại ngăn ngừa hiện tượng teo cơ gây ra bởi steroid. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm chứa thành phần kết hợp các chất làm giảm melanin với các chất chống nắng.
Có rất nhiều nghiên cứu về các cách phối hợp các chất bôi ngoài da ở trên và được các công ty dược phẩm sản xuất và đưa ra thị trường trong đó HQ là thành phần chính có trong hầu hết các sản phẩm. Nó thường được bào chế dưới dạng kết hợp với acid glycolic, acid azelaic, acid kojic, acid retinoic hoặc corticosteroid. Tuy nhiên, nhiều chất giúp ngăn cản hình thành melanin khác lại được phối hợp với nhau một cách tùy tiện mà hầu hết trong số đó vẫn chưa được thử nghiệm lâm sàng về hiệu quả cũng như độ an toàn.
Trong các phối hợp thuốc điều trị nám, tàn nhang thì sự phối hợp của bộ ba chất HQ, acid retinoic và corticosteroid được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi nhất, lần đầu được công bố bởi Kligman và Willis. Ban đầu, 3 hoạt chất này được phối hợp với nhau ở nồng độ: HQ 5%, tretinoin 0,1% và dexamethason 0,1 % và cho hiệu quả khá tốt trong điều trị nám, tàn nhang và tăng sắc tố da sau viêm. Tuy nhiên,với nồng độ tretinoin trong công thức gây ra hiện tượng kích ứng trên da và sau đó người ta thay thế bằng công thức: HQ 4%, tretinoin 0,05% và fluocinolon acetonid 0,01% cho hiệu quả cao và sử dụng được trong thời gian dài. Sự phối hợp bộ 3 này vẫn được coi là liệu pháp đầu tay cho đến khi phát hiện thấy có nhiều bệnh nhân rất nhạy cảm với công thức này. Và lúc này, người ta lại nghĩ đến những công thức chỉ chứa 1 hoặc hai chất trong số các chất kể trên.
10. Điều trị trong thời kỳ mang thai
Nám, tàn nhang kháng lại hầu hết các phương pháp điều trị trong thời kỳ mang thai vì sự thay đổi hormone liên tục càng làm phát triển bệnh. Vì vậy, điều trị thường tiến hành sau khi sinh đẻ. Hơn thế nữa, điều trị trong giai đoạn này có thể không cần thiết vì nám, tàn nhang ở phụ nữ mang thai chỉ xuất hiện tạm thời và sau khi sinh, hormone điều tiết về mức bình thường, hiện tượng này có thể sẽ được cải thiện đáng kể.
Kết luận
Nám, tàn nhang là một vấn đề nan giải và đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp bôi ngoài ra trong một thời gian dài. Kết quả thường không mang lại sự hài lòng và những chất bôi ngoài da này còn có thể gây ra những tác dụng nguy hiểm. HQ được coi là lựa chọn vàng trong việc sử dụng các chất bôi ngoài da để trị nám, tàn nhang, tuy nhiên, tác dụng không mong muốn của nó vẫn là vấn đề được quan tâm. Bộ ba chất HQ, acid retinoic và corticosteroid được coi là sự kết hợp đầu tay trong điều trị rối loạn sắc tố. Có rất nhiều chất mới đươc phát hiện có tác dụng ức chế sản sinh melanin rất tốt, tuy nhiên, lại chưa có những thử nghiệm in vitro, in vivo và thử nghiệm lâm sàng một cách đầy đủ, cần phải được tiến hành trước khi đưa vào sử dụng.